Triệu chứng quai bị được biết đến nhiều nhất là tình trạng má hóp và hàm sưng. Nếu không được điều trị và phòng ngừa có thể gây ra biến chứng nghiêm trọng như viêm não, vô sinh. Vậy nên, bài viết này sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về triệu chứng quai bị và cách phòng ngừa.
Nội dung bài viết
- 1. Quai bị là gì?
- 2. Các triệu chứng quai bị
- 3. Nguyên nhân bệnh và triệu chứng quai bị
- 4. Bệnh và triệu chứng quai bị gây ra các biến chứng
- 5. Phòng ngừa khi chưa có triệu chứng quai bị
- 5.1 Tiêm chủng phòng ngừa quai bị
- 5.2. Những người không cần tiêm vắc xin MMR
- 5.3. Tiêm chủng ngừa MMR
- 5.4. Đợi để được chủng ngừa MMR
- 5.5. Kiểm tra với bác sĩ
- 5.6. Tác dụng phụ của vắc xin
1. Quai bị là gì?

Quai bị là một bệnh nhiễm trùng do vi-rút ảnh hưởng đến các tuyến sản xuất nước bọt, đặc biệt là các tuyến mang tai chạy dọc theo góc hàm phía trước và bên dưới mỗi tai. Quai bị có thể gây sưng ở một hoặc cả hai tuyến này.
Trẻ em từ 5 đến 10 tuổi có khả năng mắc bệnh quai bị cao nhất. Bị nhiễm một lần sẽ cho bạn khả năng miễn dịch suốt đời.
Hiện nay, việc tiêm phòng quai được phổ biến. Vì vậy, số lượng các trường hợp bị nhiễm quai bị đã giảm nhanh chóng. Tuy nhiên, vẫn có những đợt bùng phát bệnh quai bị. Và thường ảnh hưởng đến những người không được tiêm chủng. Những đợt bùng phát này xảy ra ở những nơi tiếp xúc gần như trường học hoặc khuôn viên đại học.
Bệnh quai bị gây ra các triệu chứng quai bị rất khó chịu với cơ thể; đặc biệt là triệu chứng gây ảnh hưởng đến ngoại hình.
2. Các triệu chứng quai bị

Bệnh quai bị được biết đến nhiều nhất với triệu chứng quai bị là má hóp và hàm sưng mà nó gây ra. Đây là kết quả của tình trạng sưng tuyến nước bọt dưới tai ở một hoặc cả hai bên, thường được gọi là viêm tuyến mang tai. Người bị nhiễm quai bị sẽ bị đau, sưng tuyến nước bọt ở một hoặc cả hai bên mặt. Mặt, quai hàm bị sưng, đau họng và đau góc hàm. Gây đau khi nhai hay nuốt, ngay cả khi uống nước.
Các triệu chứng quai bị khác có thể bắt đầu vài ngày trước khi bị viêm tuyến mang tai. Đầu tiên, người bị sẽ sốt và kèm theo đau đầu, buồn nôn. Các cơ trên cơ thể bị đau, nhức. Cơ thể cảm thấy mệt mỏi, ăn mất ngon, không có khẩu vị, suy nhược cơ thể. Đối với nam giới, có thể thêm triệu chứng đau tinh hoàn.
Các triệu chứng quai bị thường xuất hiện từ 16-18 ngày sau khi nhiễm bệnh. Nhưng thời gian này có thể dao động từ khoảng 12–25 ngày.
Một số người mắc có các triệu chứng quai bị rất nhẹ (như cảm lạnh), hoặc không có dấu hiệu gì và có thể không biết mình mắc bệnh.
Trong một số trường hợp hiếm hoi, quai bị diễn biến nặng; bệnh quai bị cũng có thể gây ra các biến chứng nặng hơn. Hầu hết những người bị quai bị hồi phục hoàn toàn trong vòng hai tuần.
3. Nguyên nhân bệnh và triệu chứng quai bị

Quai bị do một sinh vật có tên là paramyxovirus gây ra. Nó lây truyền qua miệng bằng những giọt nước bọt nhỏ khi nói chuyện, hắt hơi, dùng chung đồ uống, hôn hoặc ho. Một khi nó nằm trên tay bạn, rất có thể nó sẽ tìm đường vào miệng bạn, đặc biệt nếu trẻ nhỏ.
Quai bị lây nhiễm trong khoảng một tuần trước khi xuất hiện triệu chứng quai bị là các tuyến sưng lên. Và khoảng 9 ngày sau đó. Vì vậy mọi người có thể truyền bệnh trước khi biết mình mắc bệnh. Điều này là phổ biến đối với hầu hết các bệnh do virus.
Bệnh quai bị thường đặc biệt hiếm gặp ở trẻ em dưới 3 tuổi và người lớn trên 40 tuổi. Nó phổ biến nhất vào cuối mùa đông và mùa xuân, khoảng tháng Ba. Bệnh quai bị thường xuất hiện trong các trường hợp riêng lẻ rải rác. Mặc dù đôi khi có dịch ở địa phương – nơi những trẻ chưa được tiêm chủng. Nó ít lây nhiễm hơn bệnh thủy đậu hoặc bệnh sởi. Người lớn chưa tiêm phòng, chưa từng mắc bệnh có nguy cơ biến chứng cao hơn nhiều so với trẻ em.
4. Bệnh và triệu chứng quai bị gây ra các biến chứng
Các biến chứng của bệnh quai bị rất hiếm, nhưng một số có khả năng nghiêm trọng. Do nguyên nhân và triệu chứng quai bị chủ yếu tác động đến các tuyến; đặc biệt là ở bộ phận đầu và gần tai; thế nên bệnh quai bị chủ yếu ảnh hưởng đến các tuyến mang tai. Tuy nhiên, nó cũng có thể gây viêm ở các khu vực khác của cơ thể, bao gồm não và cơ quan sinh sản.
Hầu hết các biến chứng của quai bị liên quan đến tình trạng viêm và sưng tấy ở một số bộ phận của cơ thể, chẳng hạn như:
- Điếc tai: Biến chứng điếc tai do quai bị rất hiếm gặp, với tỷ lệ 1/200.000 trẻ bị nhiễm bệnh quai bị. Điếc tai xảy ra ở giai đoạn khởi phát do virus quai bị gây tổn thương ốc tai. Điếc tai do biến chứng quai bị rất khó hồi phục, thường là điếc một bên tai, hiếm gặp cả hai tai. Hiện nay vẫn chưa có giải pháp hữu hiệu để ngăn ngừa biến chứng này.
- Tinh hoàn: Tình trạng này, được gọi là viêm tinh hoàn, khiến một hoặc cả hai tinh hoàn sưng lên ở nam giới đã đến tuổi dậy thì. Viêm tinh hoàn gây đau đớn. Bạn có thể kiểm soát cơn đau do viêm tinh hoàn bằng cách chườm lạnh lên tinh hoàn nhiều lần mỗi ngày. Bác sĩ có thể đề nghị dùng thuốc giảm đau theo toa nếu cần thiết. Trong một số trường hợp hiếm gặp, viêm tinh hoàn có thể gây vô sinh.
- Não: Nhiễm virus như quai bị có thể dẫn đến viêm não. Khi virus qua bị tấn công lên não, gây sốt cao, nhức đầu, nôn, rối loạn ý thức, co giật, cổ cứng. Viêm não có thể gây ra các vấn đề về thần kinh và nguy hiểm đến tính mạng.
- Màng và chất lỏng xung quanh não và tủy sống: Tình trạng này, được gọi là viêm màng não có thể xảy ra nếu vi rút quai bị lây lan qua đường máu để lây nhiễm sang hệ thần kinh trung ương của bạn.
- Tuyến tụy: Tình trạng viêm của tuyến tụy, một cơ quan trong khoang bụng. Viêm tụy do quai bị là một tình trạng tạm thời. Các dấu hiệu và triệu chứng của tình trạng này bao gồm đau ở vùng bụng trên, buồn nôn và nôn.
- Viêm buồng trứng: Biểu hiện đau bụng, rong kinh.
- Nhồi máu phổi: Có thể xảy ra sau viêm tinh hoàn, do hậu quả của huyết khối từ tĩnh mạch tiền liệt tuyến
Các biến chứng khác của bệnh quai bị nhưng ít gặp:
- Viêm thần kinh thị giác: Gây ảnh hưởng đến thần kinh thị giác, làm cho người bị bệnh giảm thị lực tạm thời.
- Mất thính lực: Mất thính lực có thể xảy ra ở một hoặc cả hai tai. Mặc dù hiếm gặp, nhưng đôi khi mất thính lực là vĩnh viễn.
- Vấn đề về tim: Hiếm khi ảnh hưởng đến tim. Nhưng bệnh quai bị vẫn có liên quan đến nhịp tim bất thường và các bệnh về cơ tim, viêm cơ tim.
- Sảy thai: Phụ nữ bị nhiễm quai bị có thể bị sưng buồng trứng. Tình trạng viêm có thể gây đau đớn nhưng không gây hại cho trứng của phụ nữ. Tuy nhiên, nếu phụ nữ mắc bệnh quai bị khi mang thai, đặc biệt là trong giai đoạn đầu của thai kỳ, có thể dẫn đến sảy thai.
Ngoài ra, một số triệu chứng quai bị còn có thể dẫn đến những biến chứng như: Viêm tuyến giáp, viêm tuyến lệ, viêm thanh khí phế quản, viêm phổi, rối loạn chức năng gan, xuất huyết do giảm tiểu cầu.
5. Phòng ngừa khi chưa có triệu chứng quai bị
5.1 Tiêm chủng phòng ngừa quai bị

Cách tốt nhất để ngăn ngừa bệnh quai bị là tiêm vắc xin phòng bệnh. Nếu chưa bị quai bị và chưa có các triệu chứng quai bị thì nên tiềm ngừa quai bị. Hầu hết mọi người đều có khả năng miễn dịch với bệnh quai bị sau khi họ được tiêm chủng đầy đủ.
Thuốc chủng ngừa quai bị thường được tiêm dưới dạng tiêm vắc xin phối hợp sởi-quai bị-rubella (MMR), chứa dạng an toàn và hiệu quả nhất trong mỗi loại vắc-xin. Nên tiêm hai liều vắc-xin MMR trước khi trẻ đi học. Những loại vắc-xin đó nên được tiêm khi trẻ:
- Từ 12 đến 15 tháng tuổi
- Từ 4 đến 6 tuổi
Sinh viên đại học, khách du lịch quốc tế và nhân viên chăm sóc sức khỏe nói riêng được khuyến khích đảm bảo rằng họ đã tiêm hai liều vắc-xin MMR. Một liều duy nhất không hoàn toàn hiệu quả trong việc ngăn ngừa bệnh quai bị.
Liều vắc xin thứ ba không được khuyến cáo thường xuyên. Nhưng bác sĩ có thể khuyên nên dùng liều thứ ba nếu đang ở trong khu vực đang bùng phát dịch bệnh. Một nghiên cứu về đợt bùng phát bệnh quai bị gần đây trong khuôn viên trường đại học cho thấy những sinh viên được tiêm liều thứ ba của vắc-xin MMR có nguy cơ mắc bệnh thấp hơn nhiều.
5.2. Những người không cần tiêm vắc xin MMR
Không cần tiêm phòng nếu:
- Đã tiêm hai liều vắc-xin MMR sau 12 tháng tuổi.
- Đã tiêm một liều MMR sau 12 tháng tuổi và bạn là trẻ em mẫu giáo hoặc người lớn không có nguy cơ cao mắc bệnh sởi hoặc quai bị.
- Xét nghiệm máu để chứng minh khả năng miễn dịch của bạn với bệnh sởi, quai bị và rubella.
- Được sinh ra trước năm 1957 – hầu hết những người trong độ tuổi đó có khả năng bị nhiễm vi rút tự nhiên và có khả năng miễn dịch.
Ngoài ra, vắc-xin không được khuyến nghị cho:
- Những người đã có phản ứng dị ứng đe dọa tính mạng với kháng sinh neomycin hoặc bất kỳ thành phần nào khác của vắc xin MMR.
- Phụ nữ mang thai hoặc phụ nữ dự định có thai trong vòng bốn tuần tới.
- Những người có hệ thống miễn dịch bị tổn hại nghiêm trọng.
5.3. Tiêm chủng ngừa MMR
Bạn nên tiêm chủng ngừa nếu bạn không phù hợp với các tiêu chí được liệt kê ở trên và nếu bạn:
- Là một phụ nữ không mang thai trong độ tuổi sinh đẻ.
- Theo học đại học hoặc một trường sau trung học khác.
- Làm việc trong bệnh viện, cơ sở y tế, trung tâm chăm sóc trẻ em hoặc trường học.
- Lên kế hoạch đi du lịch nước ngoài hoặc đi du thuyền.
5.4. Đợi để được chủng ngừa MMR
Cân nhắc chờ đợi nếu:
- Bị bệnh vừa hoặc nặng. Nên chờ cho đến khi hồi phục.
- Có thai. Nên chờ cho đến sau khi sinh con.
5.5. Kiểm tra với bác sĩ
Nói chuyện với bác sĩ trước khi chủng ngừa bệnh quai bị nếu bạn:
- Bị ung thư.
- Bị rối loạn máu.
- Mắc bệnh ảnh hưởng đến hệ thống miễn dịch của bạn, chẳng hạn như HIV/AIDS.
- Đang được điều trị bằng thuốc, chẳng hạn như steroid, ảnh hưởng đến hệ thống miễn dịch của bạn.
- Đã nhận được một loại vắc xin khác trong vòng bốn tuần qua.
5.6. Tác dụng phụ của vắc xin
Thuốc chủng ngừa MMR rất an toàn và hiệu quả. Tiêm vắc-xin MMR an toàn hơn nhiều so với việc mắc bệnh quai bị.
Hầu hết mọi người không gặp tác dụng phụ từ vắc-xin này. Một số người bị sốt nhẹ, phát ban hoặc đau nhức các khớp trong thời gian ngắn.
Hiếm khi trẻ được chủng ngừa MMR có thể bị co giật do sốt. Nhưng những cơn co giật này không liên quan đến bất kỳ vấn đề lâu dài nào.
Bệnh quai bị có thể rất ít gây nguy hiểm. Các triệu chứng quai bị dễ dàng nhận biết. Do đó, hãy chủ động chữa trị và phòng ngừa khi có người bị nhiễm. Tránh những biến chứng về sau của nó. Hãy chủ động chích ngừa cho gia đình bạn.
Xem thêm: